Ở HUYỆN VĨNH THẠNH, TỈNH BÌNH ĐỊNH
-----
DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH THÀNH ĐÁ TÀ KƠN (CẤP TỈNH – NĂM 2013)
1. TÊN GỌI: DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH THÀNH ĐÁ TÀ KƠN
Tà Kơn theo tiếng Bahnar có nghĩa là đá lớn xếp thành lũy, một kỳ vĩ của thiên nhiên ban cho làng Kon Blo, trước đây thuộc xã Lơ pin nay thuộc xã Vĩnh Sơn, ở đây có cột đá tự nhiên có trụ hình chữ nhật, có trụ hình lục giác xếp sít nhau thành một bức tường dài 500 – 600m, cao 30 – 40m. Đứng xa mà quan sát, như có bàn tay con người xây dựng nên. Nhưng khi đến gần thì nó là bức tường tự nhiên được hình thành do kiến tạo địa chất mà thành. Do bức tường đá chạy thành một vệt dài theo sườn núi giữa núi rừng núi đại ngàn hùng vĩ của Vĩnh sơn nên ngày xưa gọi là thành, con người đã thổi vào những khối đá kỳ vĩ này sinh khí. Một sức sống nhân văn, một văn hóa cự thạch để đề cao tinh thần bất khuất chống xâm lược. Thiên nhiên trở nên hào hùng qua sự kiên trì chống xâm lược. Tuy mang yếu tố huyền thoại, nhưng vẫn tồn tại cụ thể qua chân lý trường tồn, muốn sống cần phải chống kẻ xâm lược. Nét đẹp muôn đời của thành Tà Kơn nằm ở chỗ nó ghi nhận được những ký ức rõ nét về một thời anh hùng lãng mạn xa xăm của dân làng.
Đến thành Tà Kơn, ta không chỉ có dịp chiêm ngưỡng bức tường thành đá kỳ vĩ không nơi nào có được, mà còn đắm mình trong cảnh thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ của núi rừng nguyên sinh với một thảm thực vật đa dạng và phong phú. Không chỉ là danh thắng, khu vực thành đá Tà Kơn trong lịch sử là căn cứ của nghĩa quân Tây Sơn từ những ngày đầu khởi nghĩa, tục danh vườn cam Nguyễn Huệ vẫn còn đó như minh chứng cho sự kiện ấy. Thời kỳ lịch sử hiện đại, 30 năm kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ, khu vực thành Tà Kơn từng là hậu cứ của du kích và quân chủ lực huyện cho đến năm 1975, ngày đất nước thống nhất. Căn cứ vào tiêu chí được quy định trong luật di sản văn hóa 2001 được sửa đổi và bổ sung một số điều năm 2009 và Nghị đinh 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ “Quy định chi tiết thi hành một số điều luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật di sản văn hóa”, di tích thành Tà Kơn có thể sắp xếp vào di tích: Lịch sử và Danh lam thắng cảnh.
2. PHÂN LOẠI DI TÍCH:
Thành Tà Kơn là dãy núi đá được hình thành do quá trình phun trào của núi lửa vào thời kỳ Đệ tứ kỷ cách nay hàng triệu năm, quá trình nâng lên của bề mặt trái đất, đã tạo nên những cột đá có dáng hình học xếp liền kề nhau như được gia công bởi bàn tay con người. Bên cạnh còn có thác Lơ pin hùng vĩ, được tạo bởi những dòng chảy nham thạch với một thác nước cao hàng trăm mét đổ xuống đổ xuống trắng xóa, khói sương mờ ảo tạo nên một cảnh quan kỳ vĩ giữa núi rừng, đứng bên dòng thác như lạc vào nơi tiên cảnh của thiên cung nơi trần thế.
Đến thành đá Tà Kơn, không chỉ ta được chiêm ngưỡng những cột đá kỳ vĩ xếp liền kề nhau, mà còn được khám phá cảnh núi rừng đại ngàn hoang sơ của núi rừng Vĩnh Sơn bao la và huyền thoại. Trong lịch sử, thành Tà Kơn từng là căn cứ thượng đạo của nghĩa quân Tây Sơn. Từ năn 1945 – 1962, là căn cứ cách mạng và quân giải phóng Vĩnh Thạnh trong kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ. Từ kết quả khảo sát, qua những tư liệu ghi chép về thành Tà Kơn, trên cơ sở những tiêu chí được quy định trong điều 11 Nghị đinh 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010. Di tích thành đá Tà Kơn thuộc loại hình: Di tích lịch sử và Danh lam thắng cảnh.
3. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TÍCH:
- Thành Tà Kơn qua những huyền thoại.
Thành Tà Kơn là những khối đá hình trụ được hình thành qua biến đổi kiến tạo địa chất thuộc địa khối Kom Tum được cấu tạo bởi nham thạch cổ nhất các nay có niên đại từ 1,8 – 2 triệu năm, cũng là nơi cư trú của dân cư bản địa Bahnar Kriêm. Hiện tượng thiên nhiên kỳ thú này không chỉ trở thành danh thắng nơi núi rừng này mà nó đã đi vào sử thi của họ. Theo họ, thành Tà Kơn do hai anh em Đrum và Đrăm xây nên, nhờ có thành đá này mà trai tráng trong làng cùng Đrum và Đrăm đánh thắng quân Tà pông Kang. Trong một bữa dạo rừng, Đrum và Đrăm đã đỡ cho bé sinh ra từ buồng cau. Khi cô bé ấy lớn lên được hai chàng kết nghĩa cha con và đặt tên là Bya Pkao Pnang (nàng Hoa cau). Lớn lên, nàng yêu hai chàng trai tài ba ấy. Nhưng Đrum và Đrăm không thể phá bỏ cái tình cha con nên họ đã đập vỡ một mảng thành đá, ra đi. Nàng lặn lội đi tìm hai chàng. Nơi nào có dấu chân đi qua, đều để lại những cây cau khi hết thì hoa trắng đến thì trái xanh, như tóc nàng lúc bạc lúc đen.
Già làng Kon Blo làng Vĩnh Sơn cho biết “Tà Kơn vốn là ngôi nhà của 3 anh em Trum, Trăm và BiaTơni. Trum và Trăm là 2 ông vua, còn Bia Tơni là công chúa xinh đẹp, thông minh. Một vị vua xứ khác tên là Bok Tơpơnka có ý định cầu hôn Bia Tơni nhưng hắn rất độc ác nên bị nàng khước từ. Không cưới được cô gái xinh đẹp, Bok Tơpơnka kéo quân đánh thành Tà Kơn. Khi quân địch kéo đến mặt trời sắp tắt nên vị vua giữ thành liền bảo với đối phương: “Muộn rồi để chúng tôi nấu cơm cho binh lính của ngài ăn lấy lại sức, ngày mai sẽ giao chiến” Vua gọi thành sai người lấy sừng trâu nấu với bí đao rồi múc cho quân địch ăn. Lát sau nước sừng trâu cô quánh làm thắt ruột quân địch khiến chúng lăn ra chết. Bok Tơpơnka định bỏ chạy thì bị vua giữ lại, đòi tỉ thí mà không dùng đến vũ khí. Đầu tiên mỗi bên thả một con sóc, sóc của ai kêu to hơn thì thắng. Sóc của Bok Tơpơnka bị câm nên vua giữ thành thắng. Sau đó, mỗi bên thả một con gà trống chỉ con gà của vua Trum gáy được nên Bok Tơpơnka lại thua. Thua bẽ mặt, Bok Tơpơnka quên lời giao ước, rút binh khí đánh Trum và cuối cùng bị chặt làm khúc. Sau đó, Trum và Trăm theo đường hầm dưới núi đi ra suối trú rồi biến giữa thác Dá Bda, còn công chúa đi về đồi Kôn Sơrut ở làng Kon Truch, nơi ấy gọi là vườn cam Nguyễn Huệ”.
Già làng Kon Blo kể thêm nhiều chi tiết thú vị: “Xưa, nhiều người ở làng Kon Blo làm phu xây thành Tà Kơn. Khi đi, người làng mang theo đao, rựa. Là nơi quân binh của nhà vua mang ra những hòn đá mài đặc biệt. Đao, rựa được tạo từ những hòn đá này chặt đá như chặt củi nên người ta mới có những hòn đá phẳng để dựng thành”. Ngoài ra còn có những người kể rằng trong vườn thành Tà Kơn còn có nhiều hoa quả như: Cam, bưởi, mít… ai vào trong vườn dạo chơi đều được hái dùng, nhưng một điều cấm kị là không được hái trái mang về, nếu vi phạm trời nổ cơn thịnh nộ và đổ mưa không có lối mà ra sẽ bị đi lạc, chỉ khi bỏ lại hoa quả thì trời bỗng dưng sáng lại cho lối ra.
Già làng cũng kể rằng: “Thành Tà Kơn chính là cứ điểm bí mật của quân Tây Sơn, đây là địa điểm mà 3 anh em Nguyễn Huệ từ Bình Thành theo sông Kôn đến tập kết. Trong quá trình hoạt động, Nguyễn Nhạc kết hôn với con của một già làng Bahnar ở làng Tú Thủy (An Khê) được gọi là Cô Hầu… Ngược dòng lịch sử, ngoài anh em Tây Sơn, từ xưa đến nay đất này không có vị anh hùng dân tộc nào khởi nghĩa nên rất có thể thành Tà Kơn là do Tây Sơn xây dựng”.
Nhưng, về góc độ khoa học có thể lý giải, bức thành đá hay còn gọi là thành Tà Kơn được hình thành bởi quá trình phun trào của núi là cách nay hàng triệu năm về trước, trong quá trình phun trào nham thạch mà hình thành nên dạng như thành Tà Kơn của Vĩnh Thạnh, con người đã hình tượng hóa bằng các câu chuyện huyền thoại về bức tường này để tăng thêm tính thiêng liêng của thiên nhiên.
- Xây thành Tà Kơn:
Người xưa kể rằng, làng Kon Blo năm nào cũng có giặc tà Pong Kang tới cướp phá. Dân làng năm nào cũng phải chạy làng tránh giặc.
Một hôm có hai anh em Đrum và Đrăm khỏe đẹp đến làng. Hai người có được hòn đá mài của Bok Kei Dei cho, có thể mài rựa gọt đá xây thành. Dân làng theo hai anh em Đrum và Đrăm gọt những hòn đá to, thành những viên hình chữ nhật, nặn hàng tấn xây ba mặt thành bọc lấy quả núi. Bên trong thành họ gọt đá xếp làn đường đi, làm nhà ở, làm chuồng trâu, hầm cất lúa, nhà rông, nhà bếp, giếng nước đường xuyên từ núi ra ngoài, làm hào, máng ăn cho heo… tất cả làm bằng đá tảng. Đất ở ngoài thành dân làng vẫn làm rẫy trồng lúa trỉa bông.
Tà Pông Kang thấy anh em Đrum và Đrăm có thành cao hào sâu bèn đến xin làm anh em, cùng kết nghĩa xây thành. Biết rõ lòng dạ của Tà Pông Kang, anh em Đrum và Đrăm bàn với Bok Ria nấu cháo để đãi quân lính của Tà Pông Kang, quân Tà Pông Kang thấy cháo ngon, nóng sốt, mềm mại tưởng là cháo bí đao cho nên ăn rất nhiều. Qua đêm chúng bị chướng bụng, chết rất nhiều. Tà Pông Kang bóp bụng nôn ra, biết không phải là cháo bí đao mà là cháo sừng trâu, ăn vào nguội, căng không tiêu được. Âm mưu bại lộ, quân chết hết. Tà Pông Kang thất vọng, tức giận bỏ đi, nhưng âm mưu chiếm thành Tà Kơn và đất làng Kon Blo vẫn không từ bỏ. Lão muốn ăn tươi nuốt sống cái làng của Đrum và Đrăm.
- Nàng hoa cau.
Một hôm Đrum và Đrăm cùng dân làng đi săn bắn. Từ sáng đến xế trưa thú lớn cũng không gặp, thú nhỏ cũng không thấy. Mệt mỏi, cả lũ làng bền nghỉ lại bên bờ suối. Ngồi nghe tiếng suối chảy róc rách, tiếng gió reo vui. Họ còn nghe được tiếng trẻ con khóc. Họ cùng đứng dậy tỏa đi tìm kiếm. Tiếng trẻ khóc nghe càng rõ, nhưng tìm mãi tìm hoài cũng không thấy. Cuối cùng họ mới nhìn lên trên một cây cau, hương tỏa bát ngát, mo cau động động. Đrum và Đrăm cùng trèo lên gỡ mo cau xuống, bế ra một bế gái xinh xắn về làng. Hai anh em Đrum và Đrăm chăm sóc bé gái như con. Các bà mẹ trong làng thay nhau cho bú. Thoáng chốc em bé gái đã lớn, biết nói. Cả làng đặt tên cho em, em đều không nhận. Đrum và Đrăm đặt tên cho em, em cũng không ưng. Cuối cùng Đrum và Đrăm đặt tên cho em là Prai Pnang, em liền đồng ý. Prai Pnang giỏi giang, trẻ mãi không già, được mọi người yêu quý. Khi nàng đi tắm ở thác Lơ pin, da nàng làm nước ở trên ánh bạc. Tóc nàng dài chấm gót, một làn tên do hai cánh ná cứng bắn đi cũng chưa đến chân tóc của nàng. Nàng hàng ngày ra giếng trời, Sdrởm Yang lấy nước làm cơm cho Đrum và Đrăm. Dân làng hiện nay vẫn dùng giếng này ngâm vải dệt nhuộm chàm, màu tươi nguyên, không phai, nước cũng không thối. Trước khi làm đập Vĩnh Sơn, khi mùa nước dân làng vẫn ra chân thác khiêng các loại nai, mang, chồn, cáo về ăn. Dân làng bảo rằng nàng vẫn nhớ họ nên hàng năm gửi quà về tặng dân làng. Những khúc cây của nàng để lại đã trở thành những khối đá hình chữ nhật. Tiếng đồn về nàng Prai Pnang đẹp nét, đẹp người như hương hoa cau trải khắp núi rừng.
- Tà pông Kang thi tài cùng Đrum và Đrăm.
Dáng vẻ xinh đẹp đức hạnh thơm lừng của Prai Pnang lọt vào hai lỗ tai xấu của Tà Pông Kang. Lão đem quân tới thành Tà Kơn đòi thi tài với Đrum và Đrăm nếu thắng được lão, lão sẽ rút quân, để yên thành Tà Kơn cho Đrum và Đrăm. Nếu lão thắng cuộc Prai Pnang sẽ là vợ của lão. Lão sẽ làm cho Prai Pnang thơm mãi như hoa cau không bao giờ kết trái. Đrum và Đrăm biết lòng dạ của lão nhưng vẫn chấp nhận thi tài.
Thứ nhất dùng dỏ thưa xách nước từ suối lên nhà mà không lọt một hột ra ngoài. Tà Pông Kang làm được như thế nhưng lão lấy dao cắt nước như cắt thịt mỡ đem treo trên cây.
Thứ hai đem vỏ chuối trồng chuối. Đrum và Đrăm đêm vỏ chuối trồng thành cây xanh tươi. Lão Tà Pông Kang cũng trồng được cây chuối bằng vỏ, đương trổ buồng lại có nải chuối đã chín, có thể hái, bốc vỏ ăn được.
Thứ ba lấy cá khô trên giàn bếp, nấu canh cho cá sống lại. Đrum và Đrăm bỏ cá khô vào nồi, nấu lên cá ngấm nước, mở mắt. Cá Tà Pông Kang không những bơi lội trong nồi, lại còn đẻ con và nhảy ra ngoài.
Thứ tư là thi nối lại cổ gà bị chặt đầu, làm cho nó sống lại. Đrum và Đrăm chặt cổ gà làm cho nó sống lại. Tà Pông Kang nối lại cổ, gà gáy vang và cất cánh đậu lên cành cây.
Sau năm lần bảy lượt thi tài Đrum và Đrăm đều thua Tà Pông Kang, nhưng hai anh vẫn không chịu giao thành Tà Kơn. Hai anh em đem dấu Prai Pnang vào một dòng thác, rồi thách đấu với Tà Pông Kang. Những cuộc giao chiến ác liệt bất kể ngày, không kể đêm , hết cuộc đấu này đến cuộc đấu khác.
- Giết chết Tà Pông Kang.
Anh em Đrum và Đrăm càng đánh càng khỏe. Dân làng Kon Blo sợ anh em thua vì đánh nhau nát cả núi rừng, nên hết lòng giúp sức, thành Tà Kơn hùng vĩ làm cho Tà Pông Kang không thể đánh được Đrum và Đrăm. Đánh dưới đất hết chỗ họ bèn cùng nhau bay lên trời tiếp tục đánh nhau, cuộc chiến làm tan nát núi rừng thì họ kéo nhau ra biển. Trong một trận dồn về phía đông, Đrum và Đrăm đã chặt đôi Tà Pông Kang về ném xuống biển. Hắn biến thành con cá sấu và tiếp tục đuổi đánh Đrum và Đăm. Đrum và Đrăm chặt một hòn đá lớn tọng vào họng cá sấu. Mảnh đá này theo dân làng cho biết vẫn còn ở Tà Kơn. Đuôi nó quăng quật hai chàng, làm cho hai chàng đứng trên bờ thành bị sụt lở, đá rơi ngổn ngang. Dân vẫn chỉ rõ chỗ mảnh thành bị sụt do hai anh em Đrum và Đrăm đứng, bị quật ngã, làm vỡ một mảnh thành. Thân hai chàng văng ra biển Đông và hóa thành những con cua.
- Thơm ngát mùi hương cau.
Nàng Prai Pnang được hai chàng trai dấu kỹ dưới lòng thác. Thân nàng bốc lên một làn sương trắng như mây che phủ cả một thung lũng. Màn sương này đã được che mắt ác độc của Tà pông Kang. Để làm nguội lạnh lòng hung ác của nó, dân làng đành thế mạng một người con gái khác cho nó hàng năm. Màn sương này cũng được che chở bao bọc cho cây xanh, làm dịu bớt những nổi khổ của người dân trong vùng. Hàng năm nàng vẫn đến chỗ mảng thành tan vỡ, nơi hai anh em Đrum và Đrăm đã ra đi. Prai Pnang đi khắp nơi tìm hai anh, trồng cau trên những đoạn đường đã đi qua, cho nên vùng này trước đây cau mọc bạt ngàn. Nàng cũng lập nên những làng mới ở những nơi nàng đã đến. Hiện vẫn còn những làng Pnang, mang tên nàng. Nơi nào mùa cau thơm là nơi nàng đến để lại bao đời cho những lứa đôi hương vị của tình yêu. Hàng ngày dân làng Kon Blo vẫn nghe thấy nàng thì thầm, tỉ tê trò chuyện. Cuộc sống tràn đầy tình yêu mãi mãi vẫn là những hương thơm bất tận.
- Hương vị Việt cổ.
Tà Kơn có ý nghĩa là xếp đá lớn. Cõng một gùi xếp thêm một gùi cũng gọi là Tà Kơn. Người được chất đá gọi là Tà Kơn. Thành Tà Kơn trước đây thuộc xã Lơ pin, nay là xã Vĩnh Sơn là một kỳ vĩ của thiên nhiên ban cho làng Kon Blo. Những bức tường đá dài, có chỗ trên 500 – 600m, cao 3 – 10m, thẳng đứng, gồm những khối đá hình chữ nhật, lục giác, hình vuông xếp chồng lên nhau từng thớt. Để tăng thêm vẻ linh thiêng, kỳ vĩ cho cảnh quang thiên nhiên, người xưa đã nhân cách hóa thổi vào khối đá kỳ vĩ này môt sinh khí, đề cao tinh thần bất khuất của buôn làng Kon Blo trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh với bộ tộc khác. Chính vì vậy, thiên nhiên trở nên hào hùng qua sự đấu tranh giữa cái ác và cái thiện trong quá trình hình thành và tồn tại của dân làng Kon Blo.
Trong kháng chiến chống Mỹ chúng ta cũng biết đến chiến tích Tà Kơn của quân giải phóng ở Quảng Trị. Chiến công huy hoàng của thời hiện đại, nhưng vẫn mang hơi hướng Việt cổ kiên trì chống ngoại xâm. Xã Lơ pin với thành đá Tà Kơn, trong thời hiện đại cũng được tuyên dương là anh hùng lực lượng vũ trang. Hơi hướng Việt cổ tuy mang yếu tố huyền thoại, nhưng vẫn tồn tại cụ thể qua chân lý trường tồn, muốn sống bảo vệ sinh tồn còn phải chống kẻ thù xâm lược. Nét đẹp muôn đời của thành Tà Kơn được dân gian ghi nhận qua những ký ức về một thời anh hùng mang tính huyền thoại nhưng đầy chất lãng mạn, xa xăm.
3.1. Thành Tà Kơn căn cứ của phong trào Tây Sơn và căn cứ cách mạng.
Khác với truyền thuyết người Bahnar, nhiều người dân tại địa phương cho rằng thành cổ Tà Kơn do anh em nhà Tây Sơn xây dựng trong thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa. Theo một cán bộ lão thành địa phương cho rằng: thành Tà Kơn chính là mật cứ mang tính chiến lược của nhà Tây Sơn. Lúc chưa phất cờ khởi binh, Nguyễn Nhạc từng đi buôn bán trầu dọc theo sông Kôn đến nơi đây. Khi 3 anh em chiêu binh, người Bahnar hưởng ứng rất mạnh mẽ và đã cùng anh em nhà Tây Sơn dựng nên thành cổ này để làm mật cứ.
Những năm đầu khởi binh, 3 anh em nhà Tây Sơn từng ở Vĩnh Thạnh để tiếp cận với bầy ngựa hoang ở Hòn Cong (huyện K’Bang – tỉnh Gia Lai) mà thuần phục chúng phục vụ cho quân đội. Trong quá trình hoạt động, Nguyễn Nhạc cũng đã lấy một người thiếp, con gái của một già làng người dân tộc Bahnar ở làng Tú Thủy (An Khê – Gia Lai), được gọi là cô Hầu. Thành Tà Kơn là cứ điểm bí mật cao của nhà Tây Sơn thượng đạo, phía dưới đó, dãy núi thuộc địa bàn thôn Tiên Thuận, xã Tây Thuận huyện Tây Sơn còn có căn cứ ém quân Tây sơn để chuẩn bị chiến dịch đánh Phủ thành Quy Nhơn giờ được gọi là Núi ông Bình, Núi Ông Nhạc (theo tên của nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc). Dưới đó 1 chút nữa, chỗ cầu 16 (thuộc quốc lộ 19) lúc bây giờ là nơi phát lương cho quân binh Tây Sơn nên bây giờ người ta gọi là núi Phát Lương. Hơn nữa theo dòng lịch sử dân tộc, tại vùng Bình Định này từ xưa đến nay chưa có vị anh hùng dân tộc khởi nghĩa ngoài anh em nhà Tây Sơn nên có thể khẳng định thành Tà Kơn là do nhà Tây Sơn xây dựng. Ngoài 3 anh em họ ra, không một ai đủ sức để xây một thành trì hoành tráng như thế.
Những năm trước, thanh niên trong làng Kon Blo rủ nhau cầm đuốc vào sâu trong hang đá cũng chỉ phát hiện toàn những dấu chân trâu, bò. Bây giờ hang đá này bị sập, những phiến đá đã bị chặn mất cửa ra vào. Dân làng cho biết: “Chưa một đoàn khách nào đi hết tường này. Người Bahnar đã quen đường nhưng muốn đi hết cũng phải mất 1 ngày. Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, thành cổ Tà Kơn trở thành căn cứ địa của bộ đội giải phóng vào những năm 1961, 1962.
3.2. Thành Tà Kơn môi trường địa chất, địa hình
3.2.1. Môi trường địa chất:
Vùng Vĩnh Sơn thuộc trầm tích đệ tứ, kỷ đệ tứ gọi là kỷ nhân sinh, vì nó liên quan đến sự xuất hiện của loại người cách nay khoảng 1,8 – 2 triệu năm. Thềm bậc II của sông Kôn có thể thuộc vào thời Pleistocen muộn. Đã phát hiện cuội sỏi, sạn cát bị laterit hóa và tectit. Thềm bậc I có thể thuộc thời Pleistocen thượng đó là những vùng có thể nghiên cứu để phát hiện những dấu tích thuộc đại đá cũ Tectit (thiên thạch) đã phát hiện ở Vĩnh Sơn.
Giai đoạn Holocen chưa được nghiên cứu về mặt địa chất. Với những đợt biển tiến thời Holocen, các bậc thềm ở Vĩnh Thạnh là các bậc thềm biển. Vì thế trong huyền thoại hay nhắc đến các con vật như vích, sam cho nên trong chuyện thần thoại xây thành Tà Kơn ta thấy Đrum và Đrăm đứng trên thành đá Tà Kơn, bị té ngã làm sạt lở cả mảnh tường thành đá khổng lồ, rơi xuống biển. Các vật sâu từ thác, do ở trở lên, theo người già kể vẫn còn rải rác cây dừa nước.
Do đặc điểm địa chất cho nên Vĩnh Sơn là nơi có trữ lượng đá bazan lên tới 78 triệu tấn, đá bazan ở Vĩnh Sơn có độ hút vôi từ trung bình – mạnh – rất mạnh. Nhôm hoạt tính và silic có hoạt tính cao, màu sắc của chúng lại phù hợp với màu xi măng. Các nhà chuyên môn cho rằng nếu pha tỷ lệ 12 – 14 % và Klinker PC40 thì cho ra xi măng PC30. Đó là một chất phụ gia rất tốt.
Lưu vực sông Kôn, vùng Vĩnh Kim nhiều felpat, thỏa mãn cho nguyên liệu gốm sứ cao cấp, đáng tiếc là nay đã nằm trong lòng hồ Định Bình.
Vĩnh Sơn còn có suối nước khoáng. Phan Huy Chú đã nhắc đến vùng này “ngựa hoang trên núi sống từng đàn, ở đó có nhiều cảnh đẹp như hồ nước có hơi nóng bốc lên khá kỳ lạ”.
3.2.2. Một môi trường động thực vật hoang dã:
Những loài thú liên quan đến huyền thoại:
Các loại thú này thường xuất hiện trong các khan roi (chuyện kể), khan hơ mon (anh hùng ca), của người Bahnar Kriêm. Con vật đầu tiên hay được nhắc tới đó là con Trăn, Klăn. Trong huyền thoại thường thường thêm một từ Đăm, tức anh chàng tài giỏi: Đăm Klăn. Đăm Klăn là một anh chàng đẹp trai, tài giỏi, đội lốt trăn cho nên biết nói tiếng người, kết duyên với người con gái đẹp nhất làng, lập nên những khu cư trú trù phú, tươi đẹp. Đăm Klăn cũng là một thần cứu nhân độ thế. Vì thế người dân ở đây thường không ăn thịt trăn. Nhiều người thường kể chuyện, trong kháng chiến chống Mỹ, khi Mỹ dùng B52 rải thảm, trăn thường tìm đến với người bên cạnh Đăm Klăn còn có Klăn Đak, tức là trăn nước, hung dữ có thể ăn thịt người. Về mặt phân loại, nhân dân cũng phân ra thành hai: Trăn đen và trăn gấm.
Con vật thứ hai là thỏ, một nhân vật thông minh giúp cho con người trị cọp. Thỏ rừng ở đây cũng nhiều.
Con chó, theo người Bahnar là con vật cứu người qua trận đại hồng thủy. Nhờ có chó mà con người tạo ra cơ may sống sót. Sau khi nước rút, chính con chó lại đi tìm lúa giống cho con người gieo vãi trên lớp đất phù sa.
Chó sói vùng này nhiều, có hai loại: Sói lửa vì màu lông nó vàng rực, đậm và tươi. Một loại khác, chân và bụng có màu vàng, nhưng lông đen. Con đầu đàn thường có màu đen nhánh, to như chó becgie. Loại này một bầy chỉ vài con. Hiện nay do môi trường thay đổi nên chúng đã chuyển đến vùng khác. Ngoài ra còn có các loài thú hiếm như: Cầy bay, Sóc bay, Cầu mực, Báo hoa mai, cheo, Voi, Vượn đen, Tê tê khu vực thành Tà Kơn hiện nay còn chồn bay, Dơi núi, Cheo, Voi, các loại kia hiện nay còn thấy, riêng Voi do môi trường thay đổi nên đã thay đổi địa bàn sinh sống, hiện nay không còn thấy chúng ở vùng này.
3.2.3. Các loại thú khác:
Vùng Vĩnh Sơn trước đây có nhiều cọp, hiện nay ít thấy. Beo gồm có loại: beo gấm, beo hoa mai, beo lửa vì lông nó đỏ vàng. Trước đây, những người đi chợ Cửu An, An Khê thường gặp hổ đi cùng đường. Theo kinh nghiệm dân gian của cư dân ở đây là không nên làm cho chúng kinh động thì chúng tấn công con người. Người dân ở đây đi rừng thường vác dao chứ không cõng dao vào lưng. Họ cho rằng vác dao, vác mác, vác đòn gánh ngọn quay lên trên để hổ không bao giờ vồ, vì hổ vồ mồi không bao giờ theo chiều ngang mà bao giờ cũng từ trên xuống. Cho nên tư thế vác dao, đòn gánh của con người, khi vồ chúng sợ, xóc bụng nên tránh xa.
Các loại khỉ: Khỉ ở đây rất nhiều loại, nhưng dân ở đây thường nhắc tới đó là khỉ đột vì chúng chỉ đi một mình. Khỉ đột thường gọi là khỉ gấu, hay khỉ mặt đỏ (tên gọi khoa học là Macacaspeciosa ecuvier). Theo ngời dân cho biết loại khỉ này không sợ phụ nữ, thấy phụ nữ chúng hay trêu chọc, đuổi không đi, đánh thì chúng quang lại quấy. Vì thế đi giữ rẫy thường do đàn ông đảm nhận là vậy.
- Các loại chồn: Ngoài chồn bay đã đề cập vùng này có rất nhiều loại chồn. Chồn mác hay còn gọi là cầy vàng (neclicitic masechata gray), chồn. Các loại thú có liên quan đến cuộc sống săn bắt: Con hoẵng hay mễn vùng này thường gọi là con mang. Muốn bắt dùng chó, đi săn bộ. Nai còn loại: Loại vàng nâu và đen. Nai là đối tượng những cuộc săn lưới, Sơn Dương cũng có hai loại, chúng là đối tượng đi săn bằng bẩy. Nhím là con vật đi săn về làm thuốc, lông dùng làm trâm cài tóc; rái cá, chồn hôi gấu lợn một loại thú mỏ lợn chân chó, thường không đụng đến vì người ta chê hôi thành về địa chất địa mạo, địa lý, đa dạng để cho chúng ta khai thác về góc độ du lịch trên nhiều phương diện trong tương lai.
3.3. Thành Tà Kơn và những nghiên cứu:
Ghi chép về thành Tà Kơn không nhiều, nhìn dưới góc độ văn hóa học, trong cuốn làng Cây dừa của Giáo sư Diệp Đình Hoa, ông là người sinh ra tại Vĩnh Bình – Vĩnh Thạnh, là chuyên nghiên cứu về Khảo cổ học, Dân tộc học, Địa lý môi trường cảnh quan, ông đã có cái nhìn khá tinh tế về Vĩnh Thạnh nói chung, di tích này.
Về địa chất, qua tiếp cận về những nghiên cứu về địa chất vùng Tây Nguyên và Kon Tum ông cho rằng vùng Vĩnh Sơn thuộc thời kỳ Holocen cách nay khoảng 1,8 – 2 triệu năm. Thềm bậc II của sông Kôn có thể thuộc vào thời pleistocen muộn. Ông đã đi điền dã tại Vĩnh Sơn và đã phát hiện cuội sỏi, sạn cát bị laterit hóa và tectit, chính ông đã nhặt được thiên thạch Tectit tại đây, theo ông nghiên cứu có hệ thống có thể tìm thấy dấu vết văn hóa thời đại đồ đá cũ, công cụ của cư dân tiền sử, ông cho rằng Vĩnh Thạnh là các bậc thềm biển cách nay hàng triệu năm. Vì thế trong huyền thoại hay nhắc đến các con vật như Vích, Sam cho nên trong chuyện thần thoại xây thành Tà Kơn ta thấy Đrum và Đrăm đứng trên thành Tà Kơn, bị té ngã, làm sạt lỡ cả mảng tường thành đá khổng lồ, rơi xuống biển,…
Về tài nguyên: Tác giả cũng cho rằng, do đặc điểm địa chất cho nên Vĩnh Sơn là nơi có trữ lượng đá bazan lớn là nguyên dùng cho sản xuất xi măng. Về lưu vực sông Kôn, vùng Vĩnh Kim có nhiều felpat (cao lanh) nguyên liệu dùng trong sản xuất gốm sứ cao cấp, đáng tiếc là nay đã nằm trong lòng hồ Định Bình.
Vĩnh Sơn còn có suối nước khoáng. Phan Huy Chú đã nhắc đến vùng này “ngựa hoang trên núi sống từng đàn, ở đó có nhiều cảnh đẹp như hồ nước có hơi nóng bốc lên khá kỳ lạ”.
Về động thực vật: Vùng Vĩnh Sơn rất đa dạng và phong phú như: Cầy bay, Sóc bay, Cầu mực, Báo hoa mai, cheo, Voi, Vượn đen, Tê tê khu vực thành Tà Kơn hiện nay còn chồn bay, Dơi núi, Cheo riêng Voi do môi trường thay đổi nên đã chuyển đi nơi khác. Ngoài ra còn các loại thú khác như beo, cọp, khỉ, chồn, nhím, gấu.
Các loại cây rừng: Rừng Vĩnh Sơn là dạng rừng thứ sinh ổn định thường có 3-4 tầng rõ rệt, thực vật phong phú về giống và loài, có 66 bộ, 175 họ và 1848 loài. Thành phần rừng đa dạng, bao gồm trắc (có trắc cẩm lai), hương, mun, chò, sao dầu, giẻ, kiền kiền, mật, lim xanh, sến, sơn, giổi, (xanh, đỏ), trám trắng, thông vàng.
Về góc độ dân gian, tác giả làng cây dừa cũng dựa vào các khan roi (chuyện kể) và khan hơ’mon (anh hùng ca) đã vẻ nên một bức tranh toàn cảnh về cuộc đấu tranh bất khuất chống xâm lược bảo vệ thành Tà Kơn, bảo vệ dân làng Kon Blo. Bằng óc tưởng tượng nhân cách hóa, tác giả gieo vào lòng người đọc biến những khối đá vô tri thành những bức tường thành chống xâm lược.
Trong công trình nghiên cứu của Sở Khoa học Bình Định về vùng Vĩnh sơn ngoài đánh giá về tài nguyên rừng, về động thực vật Vĩnh Sơn, nhóm tác giả cũng cho rằng:
Nhìn chung động vật hoang dã ở vùng Vĩnh Thạnh gắn với khu hệ thống động vật Kông Hà Nừng (Gia Lai), Ba Tơ, Trà Bồng (Quãng Ngãi), Trà My, Phước Sơn (Quảng Nam) gồm có 7 bộ thú với 19 họ, 38 loài và 13 bộ chim với 37 họ, 77 loại thú ở vùng cao trong tỉnh hiện còn nhiều: Khỉ (vàng, mặt đỏ), cheo, hổ, cáo, (xám gốm), gấu, lợn rừng, tê tê, hươu, nai, sơn dương, hoẵng (mang), nhím, tắc kè, cầy bay, sóc bay, trăn,… voi rừng còn rất ít, phân bố trong phạm vu hẹp, thấy ở vùng cao, vùng xa, ở thượng nguồn sông Kôn – phía Tây Bắc cả huyện Vĩnh Thạnh, phía Tây Nam huyện An lão và phía Đông Bắc của xã An Toàn (theo Sở KHCN Bình Định).
Địa chí Bình Định tập lịch sử cũng nhắc đến vị trí thành Tà Kơn trong lịch sử nơi đây tại thôn Tú Thủy còn dấu tích đồng cô Hầu hơn 20 mẫu ruộng, cô Hầu có tên là Yă Đố con của một cị tù trưởng người Bahnar gả cho Nguyễn Nhạc, một con người chuyên lo về hậu cần cho quân Tây Sơn, ở Vĩnh Sơn còn dấu tích vườn cam, có những cây cổ thụ vẫn còn và cho trái hàng năm, phía sau còn có dấu tích sở hậu cần của quân Tây Sơn;
Trong lịch đảng huyện Vĩnh Thạnh cũng nhắc đến thắng cảnh thành Tà Kơn xem đây là niềm tự hào của quê hương.
Với những giá trị về lịch sử văn hóa, địa chất, môi trường cảnh quan sinh thái đa dạng, chúng tôi cho rằng thành Tà Kơn là loại hình di tích lịch sử danh lam thắng cảnh cần được bảo vệ. Là người chấp bút biên khảo di tích này, chúng tôi cho rằng di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh thành Tà Kơn không chỉ là một danh thắng mà tự bản thân của di tích đã có một giá trị đặc biệt đó là về địa chất, diện mạo; về thảm thực vật đa dạng không những về chủng loại động vật, các loại cây quý, cây thuốc… kết quả về những công trình nghiên cứu về Vĩnh Sơn nói chung và thành đá Tà Kơn nói riêng đã nói lên điều đó. Là cơ quan chuyên nghiên cứu lĩnh vực di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của tỉnh, chúng tôi cho rằng di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh thành đá Tà Kơn cần sớm được xếp hạng vào danh mục di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, thành phố.
4. SINH HOẠT VĂN HÓA, TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH
Bức tường thành Tà Kơn là một danh thắng thiên nhiên, được hình thành kiến tạo địa chất vào thời kỳ Holocen (đệ tứ kỷ) cách nay 1,8 – 2 triệu năm. Nhưng nó đã đi vào truyền thuyết huyền thoại của người Bahnar, trong sử thi người Bahnar (anh hùng ca) đều nhắc đến công lao của nhân vật anh hùng đã xây dựng nên bức tường thành này. Con người đã thổi vào những khối đá kỳ vĩ này sinh khí, một sức sống nhân văn, có tinh thần bất khuất chống xâm lược. Thiên nhiên trở nên hào hùng qua sự kiên trì chống xâm lược. Tuy mang yếu tố huyền thoại, nhưng vẫn tồn tại cụ thể qua chân lý trường tồn, muốn tồn tại, muốn có cuộc sống hòa bình, hạnh phúc phải chống mọi kẻ xâm lược. Nét đẹp muôn đời thành Tà Kơn nằm ở chỗ nó ghi nhận được những ký ức rõ nét về một thời anh hùng lãng mạn xa xưa của dân làng Kon Blo. Tuy vậy nơi đây chưa ghi lại dấu ấn nào liên quan đến sinh hoạt văn hóa dân gian tín ngưỡng đến bức tường thành thể sau khi di tích được biệt hạng, tại di tích nên có hình thức này để làm sống lại không gian văn hóa tâm linh nơi núi rừng.
5. SƠ ĐỒ PHÂN BỐ DI VẬT, CỔ VẬT, BẢO VẬT QUỐC GIA THUỘC DI TÍCH
Là di tích danh lam thắng cảnh, ngoài những cánh rừng thiên nhiên bạt ngàn, di tích là bức tường thành bằng đá thiên nhiên chạy dài 500-600m. Các phiến đá có hình lục giác, hình vuông xếp chồng thành cột đá cao chất ngất trông tựa như có bàn tay gia công của con người xây dựng, nhưng thực chất nó được hình thành trong quá trình biến đổi địa chất cách nay hàng triệu năm. Chính những yếu tố đó đã tạo cho bức tường thành Tà Kơn trở nên độc đáo và huyền thoại. Là loại hình di tích danh lam thắng cảnh, ngoài những cột đá hình thù khác nhau ghép sít liền kề nhau thành bức tường thành và những cảnh vật hoang sơ của núi rừng, di tích không còn hiện vật nào liên quan.
6. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, KHOA HỌC VÀ THẨM MỸ CỦA DI TÍCH:
Thành Tà Kơn theo cách gọi của cư dân địa phương, thực chất nó là một núi đá được hình thành qua quá trình kiến tạo chất. Tuy vậy, nó vẫn có mặt giá trị nhất định về các mặt.
Về giá trị lịch sử: Thành Tà Kơn không phải là nhân tạo mà là thiên tạo, do một đột biến nào đó mà hình thành nên bức thành có hình thù lạ. Giá trị lịch sử của nó không phải là lịch sử đấu tranh mang là lịch sử hình thành địa chất cách nay hàng triệu năm, khi lớp vỏ trái đất chưa ổn định, khắp nơi núi lửa hoạt động. Đến đây, ta thấy những dòng nham thạch chảy tạo nên lòng sông Kôn đầu nguồn.
Rừng Vĩnh Sơn tại khu thành Tà Kơn thuộc rừng thứ sinh, ổn định thường có 3-4 tầng rõ rệt, thực vật phong phú về giống và loài, có 66 bộ, 175 họ và 1848 loài. Thành phần rừng đa dạng, bao gồm trắc (có trắc cẩm lai), hương, mun, chò, sao dầu, giẻ, kiền kiền, mật, lim xanh, sến, sơn, giổi, (xanh, đỏ), trám trắng, thông vàng. Ngoài ra còn có dược liệu quý như cây Berberin là nguyên liệu phục vụ cho khám chữa bệnh.
Ngoài tài nguyên rừng, rừng thành Tà Kơn còn là nơi đa dạng về động vật hoang dã như: Khỉ (vàng, mặt đỏ), cheo, hổ, cáo, (xám gốm), gấu, lợn rừng, tê tê, hươu, nai, sơn dương, hoẵng (mang), nhím, tắc kè, cầy bay, sóc bay, trăn… tuy nhiên hiện nay nó không còn phong phú như xưa. Rất có giá trị khoa học.
Về thẩm mỹ: Tuy mang tính thiên tạo, nhưng mỗi cột đá trên bức tường thành có một giá trị thẩm mỹ nhất định về hình dáng, đứng dưới bức tường thành mà ngắm, ta như có cảm tưởng như có bàn tay con người ngoài hành tinh đến tạo dựng điểm xuyết cho cảnh núi rừng Vĩnh Sơn, ta cảm thấy chóng ngợp no nê bởi cảm xúc huyền thoại. Những yếu tố đã tạo nên giá trị thực của di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh thành Tà Kơn./.
(Nguồn: Bảo tàng Bình Định, Hồ sơ Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Thành đá Tà Kơn, 2013).